TƯ LIỆU DANH NHÂN LỊCH SỬ VIỆT NAM                                                                   

Phần 1: Nguyễn Trãi và phong thủy    

Trải qua các đời Đường, Tống….đến thời nhà Minh, với danh nghĩa “Phò Trần Diệt Hồ” nhà nước phương Bắc lại đem quân xâm lấn nước ta. Chỉ huy cuộc chiến tranh này là ba danh tướng: Trương Phụ, Mộc Thạch, Hoàng Phúc. Trong đó có Hoàng Phúc là một tướng rất giỏi, uyên thâm kỳ môn độn giáp, đặc biệt là Địa lý. Ông nghiên cứu rất nhiều và đã lấy được từ trong kho sách cuốn Cao Biền tấu thư. Lần này sang Việt Nam ông mang theo với dụng ý kiểm chứng lại các ngôi đất kết mà Cao Biền đã nêu. Nhưng trong cuộc chiến tranh này quân Minh đã thất bại, Đại quân sư Nguyễn Trãi đã dùng kế “vây thành diệt viện” chém đầu Liễu Thăng, bức hàng, bắt sống toàn bộ tướng lĩnh trong đó có Hoàng Phúc và cuốn Tấu thư địa lý này đã được thu hồi từ tay Hoàng Phúc. Nguyễn Trãi là người uyên thâm, trọng nhân tài, biết tiếng Hoàng Phúc nên không dám khinh mạn, mời vào tiếp chuyện. Khi tiếp chuyện Nguyễn Trãi rất khâm phục tài học của Hoàng Phúc. Khi bàn luận về phong thủy, Hoàng Phúc có nói với Nguyễn Trãi rằng: Nhà Hoàng Phúc được ngôi đất kết, có cái xá văn tinh cứu giải nên không sợ hung hiểm, nếu đúng như phong thủy thì không quá 100 ngày nữa Hoàng Phúc sẽ được tha. Hoàng Phúc còn nói với Nguyễn Trãi rằng, ngôi đất nhà ông ở Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông có trong bản tấu thư của Cao Biền, theo sách này, đất nhà Nguyễn Trãi kết phát công hầu khanh tướng, nhưng long lai đoản mạch, tại cung Mùi (ứng với ngôi thứ thất) có cái thương sa đâm vào nên rất độc, có thể phạm hình thương quan ngục, nếu không chữa ắt sẽ có ngày tai họa.                                                                      

                                                                            

Cao Biền đã mô tả thế đất như thế này:                                                                                           

Nhị Khê Thượng Phúc (Thôn Nhị Khê, Thượng Phúc, Hà Đông)                                                   Mạch kết bình dương (Mạch kết dưới đất bằng)                                                                             

Sơn như ngư đại (Núi như cá lớn)                                                                                                   

Thủy như loa tràng (Nước như cái loa dài)                                                                                      

Tam môn giới khí (Thủy khẩu ba đường giới khí)

Quả nhiên, sau đó để thực hiện chính sách bang giao, Lê Lợi đã cấp thuyền cấp ngựa cho quân Minh giải giáp về nước, đúng như lời Hoàng Phúc nói. Còn Nguyễn Trãi, sau vì cái án Lệ chi viên mà bị tru di tam tộc, kỳ lạ thay nó lại gây ra bởi sự liên quan đến Thị Lộ, người thứ thiếp của ông, đúng như lời Hoàng Phúc đã nói. Cuốn sách “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” vì thế mà được lưu truyền trong nhân gian, đã có một số người tìm được huyệt đặt mộ mà từ đó phát đến công hầu khanh tướng. Tất cả những địa danh ấy, những ngôi đất ấy đến nay vẫn không thay đổi nhiều.     

Phần 2: Tóm lược Tiểu sử Phạm Nhữ Tăng (1422 – 1478)

Bản tin nội tộc (Số 11/2005), 01-02-2005.  Phạm Nhữ Tăng (1422 – 1478), vốn họ ngoại tộc Lê, Trong quá trình lịch sử thời Tiền Lê có Đại tướng Phạm Cự Lượng (Lạng), bậc trung thần giàu lòng yêu nước, từng giúp Thập đạo tướng quân Lê Hoàn (Lê Đại Hành) dựng nghiệp đế và có công lớn trong việc phò tá Lê Đại Hành đánh thắng quân Tống xâm lược năm 981. Thời khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428), có các danh tướng Phạm Vấn, Phạm Yến, Phạm Thái, Phạm Nột… Trong số 221 Công thần Khai quốc được Hoàng đế Lê Lợi phong sau khi nước nhà được đại định, thì tướng Phạm Vấn đứng đầu danh sách hàng đầu (gồm 3 danh sách) là Vinh lộc Đại phu Tả Kim Ngô Vệ Đại tướng quân tước Thượng Trí tự. Riêng đối với tướng Phạm Nhữ Tăng, ông thuộc dòng dõi Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, ông là cháu 4 đời của Chánh đô An Phủ sứ lộ Thăng Hoa Phạm Nhữ Dực thời mà Hồ. Năm 1460, ông là Nghĩa sĩ tham gia xướng nghĩa cùng các trung thần Nguyễn Xí, Lê Quyết Trung, Lê Nhân Thuận, Lê Niệm, Đinh Liệt, Lê Khang, Lê Lãng,Trịnh Đạc, Nguyễn Đức Trung, Lê Yên, Lệ Thọ Vực… dẹp hàng trăm loạn đảng, phế Lê Nghi Dân, rước Lê thánh Tông lên ngôi vua.    Trong cuộc Nam chinh của chức tước trung quân Đô thống Quảng Dương hầu. Sau khi thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, lúc đầu ông được sai phấn trấn trị phủ Hoài Nhân (Tri Phủ), năm 1472, sau khi Thái uý Trình Quốc công Nguyễn Đức Trung sức yếu trở về Tây Kinh (Tây Đô – Thanh Hoá), ông được hoàng đế Lê Thánh Tông trao chức Đô ty Quảng Nam kiêm trấn phủ Hoài Nhân (Đô Thống phủ). Ngoài ra, ông còn cùng các bậc tiền bối của các tộc Nguyễn, Trần, Lê có công khai khẩn tạo lập ngũ xã: Hương Lư, Hương Yên, Hương Quế, Hương Lộc, Hương An thuộc huyện Quế Sơn. Ngày 21 – 2 – 1478, ông thọ bệnh qua đời tại thành Đồ Bàn, được cải táng tại xứ Đồng Tràm làng Hương Quế (Quế Phú). Tương truyền rằng vua Lê Thánh Tông lấy làm thương tiếc để tặng câu đối thờ ông như sau: 

“Nghĩa sĩ uẩn mưu cơ, hiệp lực nhứt tâm bình Chiêm quốc
Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ hiển Nam bang”
(Nghĩa sĩ chứa mẹo mực, chung sức một lòng dẹp yên nước Chiêm
Đền miếu mở huy hoàng, hồn thơm ngàn xưa lừng lẫy nước Nam)
                                                                                                

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *