Số lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 2


Hôm nayHôm nay : 1155

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 4042

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 2935791

Giới thiệu

Đôi nét về giáo sư Cao Ngọc Lân

ĐÔI NÉT GIỚI THIỆU VỀ GIÁO SƯ, TIẾN SĨ CAO NGỌC LÂN Họ và tên:                 CAO NGỌC LÂN           Giới tính: Nam Ngày, tháng, năm...

Giao su Cao Ngoc Lan

Trang nhất Bài viết» Tâm linh»

HÌNH TƯỢNG QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Thứ hai - 17/02/2014 10:54
Việt Nam là một nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt từ rất sớm. Vốn là một tôn giáo xuất thế nhưng khi vào Việt Nam, Phật giáo đã trở nên rất nhập thế. Nhìn lại lịch sử và văn hóa dân tộc, ta thấy rằng ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên Phật giáo đã được tiếp nhận mạnh mẽ ở Việt Nam. Tư tưởng, triết học Phật giáo là đạo lý Duyên khởi, Tứ diệu đế, Bát chánh Đạo có nhiều điểm phù hợp với tâm tư, tình cảm, đạo lý dân tộc nên đã được người Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận và dung hòa. Người Việt vốn hòa hiếu, chân thật, yêu thương đồng loại, Đạo Phật lại dạy con người biết ăn ở hiền lành, cải tà quy chánh, trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, cho nên được quảng đại quần chúng chấp nhận. Ngày vía Quan Thế Âm Bồ Tát 19/2 âm lịch sắp đến, chúng tôi gửi tặng bạn đọc bài viết: “HÌNH TƯỢNG QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA”. Bài viết được trích từ cuốn sách: “Hành trình đến với Đức Phật” của đồng tác giả Cao Ngọc Lân - Cao Vũ Minh, Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 2014.
Quan Âm, nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ tát Quán Thế Âm tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ cúng Bồ tát Quan Âm bên cạnh các vị Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Văn Thù. Đó là bốn vị Đại Bồ tát của Phật giáo Trung Quốc.
Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Trong thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm Tây Du Ký, Bảo Liên Đăng của Trung Quốc), văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật như Kinh Phổ Môn, thì Quán Thế Âm Bồ tát được xem là vị Bồ tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Thích Ca. Trước khi chứng quả Bồ tát thì Ngài có mười hai đại nguyện và cả mười hai đại nguyện đó đều liên quan đến việc cứu khổ, cứu nạn. Do đó, Quán Thế Âm được xem là vị Bồ tát cứu độ chúng sinh và là Bồ tát đặc trưng cho tinh thần của Phật giáo Đại Thừa - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác. Vì vậy, có thể nói Phật giáo Đại thừa đã nâng Ngài lên tầm quan trọng, khác biệt với Phật giáo Tiểu Thừa. Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quan Âm.
Tranh tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng một vị Bồ tát nghìn tay nghìn mắt. Có khi Quan Âm ẵm trên tay một đứa bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ Quan Âm hiện trong mây hoặc cưỡi rồng trên thác nước. Hình ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến. Tay Quan Âm thường cầm hoa sen hay bình nước cam lộ.
Danh xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ giác của họ có thể dùng chung được. Nghĩa là họ có thể dùng tai để “nhìn” thấy hình ảnh, dùng mắt để “nghe” thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được... Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán Thế Âm Bồ tát có nghĩa là: vị Bồ tát luôn “nhìn thấy” tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp khi cần.
Theo quan niệm Trung Quốc, Quan Âm ngự tại Phổ Đà Sơn, miền Đông Trung Quốc, đó là một trong Tứ đại danh sơn, là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ tát của Phật giáo Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, đến thế kỷ thứ mười, Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng cuối thế kỉ thứ mười thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật Tông trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi và Trí huệ được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ tát trong Mật tông đều có một “quyến thuộc” nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa La và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó, Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ tát giúp phụ nữ hiếm muộn.
   Một trong các lí do đó là đối với Phật giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và có sự sinh sản, Phật giáo không cho rằng thần của họ có giới tính và sự sinh sản. Do đó, việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo Kinh Phổ Môn, khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể biến hóa 32 hiện thân như Phật, Bồ tát, thiện nam, tín nữ… tùy theo đối tượng để cứu giúp. Chính vì tinh thần cứu khổ, cứu nạn ấy mà câu niệm danh hiệu của Ngài là: “Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát”.
* Quan Âm Thị Kính
Một sự tích được phổ biến tại Việt Nam là Quan Âm Thị Kính, kể rằng Ngài đã đầu thai và tu hành chín kiếp. Trong kiếp thứ mười, Ngài được đầu thai làm con gái trong một gia đình họ Mãng ở nước Cao Ly (bán đảo Triều Tiên ngày nay) và được đặt tên là Thị Kính.
Thị Kính được gả cho Thiện Sĩ của gia đình họ Sùng. Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ phận làm dâu, tôn kính phụng dưỡng bố mẹ chồng. Một hôm, Thiện Sĩ đang ngủ sau khi đọc sách, Thị Kính thấy ở cằm của chồng mình có mọc sợi râu. Thị Kính đang may vá nên cầm con dao nhíp trong tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện Sĩ giật mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ, tưởng rằng Thị Kính đang định giết mình nên thét lên.
Sau khi Thị Kính kể lại đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn nghi ngờ rằng Thị Kính có âm mưu giết chồng, bắt Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà cha mẹ mình, quyết định xuất gia đi tu. Thị Kính cải trang thành nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu, lấy pháp danh là Kính Tâm.
Tuy là gái giả trai, Kính Tâm có tướng mạo đẹp đẽ, cho nên có nhiều tín nữ ngưỡng mộ. Thị Mầu, con của một trưởng giả giàu có, trêu ghẹo Kính Tâm, nhưng không được đáp lại. Thị Mầu lại có thai với người đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai rằng Kính Tâm là cha của thai nhi. Kính Tâm tuy kêu oan nhưng không dám tiết lộ ra bí mật của mình. Sau đó, Kính Tâm phải tu ở ngoài cổng chùa để chùa không bị tiếng tăm.
Thị Mầu sinh ra được một đứa con trai, đem đứa nhỏ đến chùa gửi cho Kính Tâm. Kính Tâm vì tình thương người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Vì tích này mà đời sau mới họa bà với bức tượng “Quan Âm tống tử” (bị người ta gán con cho) nổi tiếng.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi thì Kính Tâm bị bệnh nặng. Biết mình sắp chết, Kính Tâm dặn dò đứa trẻ đưa thư cho sư cụ của chùa và cho ông bà họ Mãng.
Sau khi đọc rõ sự tình, sư cụ kêu người khám xét thi thể Kính Tâm, mới biết rằng Kính Tâm là gái giả trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi tu, sau này biến thành một con chim.
Quan Âm Bồ tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ đứa con của Thị Mầu, đem về Nam Hải, để làm người hầu. Người ta thường gọi là “Thiện Tài đồng tử”. Do đó, người ta họa hình Quan Thế Âm Bồ tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay phải có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ mặc khôi giáp chắp tay đứng hầu. Ngoài Thiện Tài đồng tử, theo hầu Quan Âm Bồ tát còn có Long Nữ.
Long Nữ là con gái của Đệ tam Thái Tử của Nam Hải Long vương Ngao Thuận, ngày kia hóa thành con cá dạo chơi trên biển, đang lúc vui đùa thì bị vướng vào lưới của một ngư dân. Người này bèn đem cá ra chợ bán, Đức Quan Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một người thường, đi đến chợ mua con cá ấy, rồi đem xuống biển Nam thả. Nam Hải Long vương nhớ ơn Bồ Tát cứu tử cháu nội gái của mình, nên bảo Long Nữ mang ngọc Dạ Minh Châu đến dâng tặng Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm không cần đèn. Long Nữ đến dâng ngọc, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát nên xin qui y và được Bồ Tát nhận làm đệ tử. Từ ấy, Thiện Tài đồng tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để phụng sự Bồ Tát.
* Quan Âm Diệu Thiện
Theo một tích khác của Trung Quốc thì Quan Âm là con gái thứ ba của Sở Trang Vương thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Trước khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên đã cầu xin rất nhiều nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã làm cho nhà vua sinh lòng oán hận.
Khác hẳn hai người chị, nàng công chúa này lớn lên chỉ say mê kinh kệ và có lòng quy y Phật. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam phía sau hoàng cung. Không thuyết phục được con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở chùa Bạch Tước rồi ngầm ra lệnh cho các sư phải tìm cách thuyết phục công chúa hoàn tục, nếu không sẽ giết hết các sư trong chùa. Tuy nhiên, mọi cách đều không lung lạc được ý chí của công chúa. Giận con, vua ra lệnh đốt chùa để giết công chúa nhưng trời bỗng có mưa to dập tắt lửa. Chưa hết giận, vua bèn hạ lệnh xử chém công chúa thì trời bỗng giông tố, tạo ra sét đánh văng búa của đao phủ. Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa, Diêm Vương đưa nàng vào địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành cõi Tịnh Độ, cứu giúp người hoạn nạn. Diêm Vương thả nàng ra, công chúa tái sinh lại trên Phổ Đà Sơn biển Đông và trở thành người cứu độ cho ngư dân. Trong khi đó, vua trong triều đột nhiên bị chứng bệnh hủi không chữa được, dần dần hai bàn tay bị rơi rụng và mắt trở nên mù. Công chúa tu đã đến kỳ đắc đạo trở về thăm phụ thân và đã hy sinh hai mắt cùng hai tay để làm thuốc chữa bệnh cho cha. Sau đó, công chúa nhập Niết Bàn, đồng thời cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật.
  Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn bèn ra lệnh cho các thợ khéo trong thiên hạ tạc tượng nàng, gọi là tượng “Quan Âm đủ mắt đủ tay” nhưng các thợ lại nghe nhầm thành “Quan Âm nghìn mắt nghìn tay”. Vì hiểu lầm ý của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng nghìn mắt nghìn tay (Quan âm thiên thủ thiên nhãn), được lưu truyền đến ngày nay.
* Quan Âm Nam Hải
Tại Trung Quốc và Việt Nam, các ngư dân thường cầu nguyện Quan Âm để được bình an trong các chuyến đi đánh cá. Vì thế, có Quan Âm cũng có biệt hiệu “Quan Âm Nam Hải”.
Như tất cả chúng ta đều biết vị Bồ tát này hằng năm có đến ba ngày kỷ niệm, đó là kỷ niệm các ngày sinh nhật, xuất gia và thành đạo:
   Ngày sinh nhật: nhằm ngày 19-2 ÂL       
   Ngày thành đạo: nhằm ngày 19-6 ÂL      
   Ngày xuất gia: nhằm ngày 19-9 ÂL.
Quan Âm Bồ tát thường cưỡi con cá ngao râu vàng mỗi khi đi ngao du. Chính vì vậy mà chúng ta thường thấy ảnh tượng của Ngài ngự trên lưng một con cá. Con cá ngao râu vàng ấy vốn tên là Ô Vân Tiên, đệ tử Triệt Giáo, theo Thông Thiên Giáo Chủ xuống trần để giúp vua Trụ đánh nhà Chu. Trong truyện Phong Thần diễn nghĩa có viết lại tích này như sau:
Khi Thông Thiên Giáo Chủ bày trận Vạn Tiên để tranh cao thấp với các tiên bên Xiển Giáo thì trận Thái Cực là một trong những trận khó phá giải. Ô Vân Tiên là chủ trận Thái Cực. Xích Tinh Tử là một tiên bên Xiển Giáo muốn phá trận ấy nên đã xách gươm vào trận. Khi vào trận ấy thì gặp một vị tiên râu dài, mặt đen, mặc áo Huyền quân, ấy là Ô Vân tiên chủ trận Thái Cực.
Ô Vân Tiên trông thấy Xích Tinh Tử hỏi lớn:
- Xích Tinh Tử! Ngươi dám phá trận ta chăng?
Xích Tinh Tử mỉm cười nói:
- Ô Vân Tiên! Ngươi đừng có ngạo mạn, trận Thái Cực này là nơi chôn thân ngươi đó.
Ô Vân Tiên nổi xung, chém tới một gươm, Xích Tinh Tử đỡ ra chém lại.
Hai bên đánh được bốn hiệp thì Ô Vân Tiên quăng Hỗn nguyên chùy lên, Xích Tinh Tử té nhào xuống đất.
Quảng Thành Tử thấy vậy hét lớn:
- Chớ hại đạo huynh ta! Có Quảng Thành Tử đến bắt ngươi đây!
Nói rồi xông vào hỗn chiến. Nhưng đánh vài hiệp, Ô Vân Tiên cũng quăng Hỗn nguyên chùy lên, Quảng Thành Tử cũng nhào xuống đất, nhưng gắng đứng dậy để chạy qua hướng Bắc.
Thông Thiên Giáo Chủ thấy Quảng Thành Tử chạy trốn, liền nói lớn:
- Ô Vân Tiên! Ngươi phải bắt cho được Quảng Thành Tử đem về đây nạp cho ta.
Ô Vân Tiên vâng lệnh, đuổi theo.
Quảng Thành Tử chạy một mạch đến chân núi ngoảnh lại thì thấy Ô Vân Tiên vẫn còn đuổi theo bén gót.
Quảng Thành Tử thất kinh chạy tiếp, nhưng may thay vừa lúc đó có Chuẩn Ðề từ trong núi bước ra, ngăn Ô Vân Tiên lại và nói:
- Tôi xin chào đạo hữu.
Ô Vân Tiên biết mặt Chuẩn Ðề, tức giận hét lớn:
- Chuẩn Ðề! Ngày xưa ngươi phá trận Tru Tiên làm nhục thầy ta, hôm nay lại cản đường không cho ta bắt Quảng Thành Tử, thật thù này chẳng đội trời chung với ngươi.
Nói rồi vung gươm chém tới.
Chuẩn Ðề há miệng, tức thì một bông sen bay ra cản lưỡi gươm lại rồi ngâm:
Sen xanh trên lưỡi ngăn gươm lại,
Phướng trắng trên tay dắt bạn về.
Ngâm xong nói tiếp:
- Ô Vân Tiên! Ngươi có phận làm bạn với ta, nên hôm nay ta đón ngươi về cực lạc.
Ô Vân Tiên tức giận, hai mắt đỏ ngầu, hét:
- Chuẩn Ðề! Ngươi khinh ta quá lắm rồi. Vậy hãy đỡ.
Nói vừa dứt lời, lưỡi gươm trên tay đâm thẳng vào mặt Chuẩn Ðề.
Chuẩn Ðề đưa tay chỉ một cái, hiện ra một bông sen trắng đỡ gươm vẹt ra, rồi ca:
Trong tay sen trắng đỡ trường gươm,
Muốn đọ Ô Vân phải chịu nhường,
Ở chốn hồng trần xem chẳng thú,
Quyết đem đạo hữu lại Tây phương.
 Ô Vân Tiên nghe ca tức lồng lên, hét:
- Chuẩn Ðề! Ðừng có nói xàm, ta chẳng nghe đâu.
Ðoạn chém một gươm.
Chuẩn Ðề chỉ tay một cái, hiện ra bông sen đỡ gươm và nói:
- Ô Vân Tiên! Ta lấy lòng từ bi tế độ, không nỡ cho ngươi hiện nguyên hình. Nếu không nghe lời cứ làm càn thì thật uổng công tu luyện. Vậy hãy suy nghĩ kỹ lại đi, có theo ta về miền cực lạc Tây phương hay không?
Chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu, Ô Vân Tiên không nói năng gì cả bay tới đâm nhầu. Chuẩn Ðề liền đưa Phất thủ ra đỡ làm cho gươm của Ô Vân Tiên bay mất lưỡi, chỉ còn cái cán nằm trong tay. 
Ô Vân Tiên thất kinh liền quăng Hỗn Nguyên chùy lên.
Chuẩn Ðề trông thấy bỏ chạy.
Ô Vân Tiên không bỏ lỡ cơ hội này bèn đuổi theo bén gót.
Chuẩn Ðề liền kêu lớn:
- Vậy chớ đồ đệ ở đâu?
Tức thì Thủy Hỏa đồng tử cầm Lục căn thanh tịnh trước, tức là cần câu chạy đến. Khi ấy Thủy Hỏa đồng tử cầm cần câu phép thòng xuống, chiếu muôn đạo hào quang, chụp Ô Vân Tiên chạy ra không khỏi.
Chuẩn Ðề kêu lớn:
- Ô Vân Tiên chưa hiện nguyên hình còn đợi chừng nào?
Ô Vân Tiên rùng mình một cái, hiện ra một con cá ngao râu vàng, Thủy Hỏa đồng tử thấy cá ngao mắc câu vùng vẫy mạnh lắm, liền buông cần câu nhảy lại đè đầu cá gỡ lưỡi câu ra rồi cưỡi cá ngao bay về ao Bát Ðức. Sau này Quan Âm Bồ tát dùng con cá này để làm vật cưỡi. Trong Tây Du Ký, con cá ngao râu vàng này đã từng xuống trần gian xưng là Linh Cảm Đại Vương, làm nước đóng băng dụ thầy trò Đường Tăng qua sông và sau đó làm cho băng tan để bắt Đường Tăng. Cả Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Ngộ Tịnh đánh mãi vẫn không thắng được phải chờ đến khi Quan Âm đem chiếc nơm phép đến thì con cá ngao râu vàng này mới chịu hàng phục và hiện nguyên hình.  
 
 
 
 
 
 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn