Số lượng truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 9

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 8


Hôm nayHôm nay : 1203

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 4090

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 2935839

Giới thiệu

Đôi nét về giáo sư Cao Ngọc Lân

ĐÔI NÉT GIỚI THIỆU VỀ GIÁO SƯ, TIẾN SĨ CAO NGỌC LÂN Họ và tên:                 CAO NGỌC LÂN           Giới tính: Nam Ngày, tháng, năm...

Giao su Cao Ngoc Lan

Trang nhất Bài viết» Tâm linh»

BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC - VỊ PHÁP THIÊU THÂN

Thứ năm - 13/06/2013 18:20
Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình Làm đèn soi sáng nẻo vô minh Trái tim bất hoại của thiền sư Thích Quảng Đức cũng kỳ lạ, đặc biệt và nhiều bí ẩn không kém gì các vị thiền sư để lại nhục thân bất hoại từ mấy trăm năm nay. Bài viết trích trong sách Hành trình đến với Đức Phật của Đồng tác giả Cao Ngọc Lân - Cao Vũ Minh.
Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Trái tim bất hoại của thiền sư Thích Quảng Đức cũng kỳ lạ, đặc biệt và nhiều bí ẩn không kém gì các vị thiền sư để lại nhục thân bất hoại từ mấy trăm năm nay.
Thiền sư Thích Quảng Đức tên thật là Lâm Văn Tức, sinh năm Đinh Dậu, 1897, tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân phụ của Ngài là Lâm Hữu Ứng và thân mẫu là Nguyễn Thị Nương.
Ngay từ khi còn bé, Ngài đã biểu lộ sự thông minh đặc biệt. Mắt sáng, tai to và một khuôn mặt đặc chất Phật. Do đó, năm lên 7 tuổi, bố mẹ cho đi theo hòa thượng Thích Hoằng Thâm, trụ trì tại ngôi chùa trong làng.
Sư Thích Hoằng Thâm yêu quý Ngài thông minh, đĩnh đạc nên đổi tên theo họ của ông là Nguyễn Văn Khiết. Ngài được đặt pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp và pháp hiệu là Quảng Đức. Toàn bộ trí tuệ uyên thâm, hòa thượng Thích Hoằng Thâm truyền cả cho người đệ tử của mình. Ngoài thiền sư Hoằng Thâm, Ngài còn tham học với thiền sư Thiện Tường và Phước Tường.
Năm 20 tuổi, Ngài thọ giới Tỳ kheo và phát nguyện tịnh tu ở một ngọn núi Ninh Hòa. Sau đó, Ngài hạ sơn để đi giảng pháp và xây dựng, trùng tu 31 ngôi chùa ở miền Trung, miền Nam Việt Nam. Lúc tu hành ở Khánh Hòa, ngài còn trẻ tuổi nhưng đã cống hiến rất nhiều cho Phật giáo địa phương.   
Các văn kiện còn lưu giữ ở những ngôi chùa vùng này đã kể lại câu chuyện chính Ngài là người đã xin phép và tổ chức thực hiện xây dựng, trùng tu nhiều ngôi chùa ở khu vực. Trong đó có ngôi chùa Thiên Lộc được xây dựng trên một ngọn núi ở Ninh Hòa mà ngài từng nhập thất tịnh tu trước đó. Cũng tại ngôi chùa này, vào khoảng năm 1935-1936, Ngài đã đúc hai chiếc chuông lớn vẫn còn đến ngày nay. Sau khi rời Khánh Hòa, Bồ tát Thích Quảng Đức còn đi hành đạo và học thêm mấy năm bên Campuchia.
Ngôi chùa cuối cùng mà ngài dừng chân tu hành trước khi tự thiêu là chùa Quán Thế Âm trên đường Nguyễn Huệ, Q.Phú Nhuận, Gia Định (nay là đường Thích Quảng Đức - pháp hiệu của ngài khi về trụ trì ngôi chùa này). Đây là một ngôi chùa được người dân địa phương lập từ năm 1920 để thờ Quan Thế Âm Bồ tát. Ngoài tên Quán Thế Âm tự, chùa còn được quen gọi là chùa Bạch Lô và chịu cảnh tiêu điều, lạnh lẽo hương khói trong những năm tháng nửa đầu thế kỷ 20 đầy biến động của đất nước.
Năm 1959, bước chân hoằng hóa của Bồ tát Thích Quảng Đức đã có duyên dừng chân lại ngôi chùa Quán Thế Âm. Ngài đã bỏ ra rất nhiều tâm huyết, công sức sửa chữa lại chùa cho đến khi xảy ra sự đàn áp Phật giáo ngày càng nặng nề của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Khi người Pháp rời khỏi Việt Nam, ngôi chùa bị bỏ hoang, biến thành phế tích. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tìm đến ngôi chùa, trùng tu, rồi trụ trì. Cuối những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ trước là thời kỳ đen tối nhất của Phật giáo miền Nam khi Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Phật tử.
Lễ khánh thành nhà thờ Đức Mẹ La Vang tại Quảng Trị, trùng hợp với đại lễ Phật Đản hàng năm, từ ngày 8 - 4 đến 15 - 4 Âm lịch trên toàn quốc. Vào dịp lễ khánh thành này, ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô Đình Thục cùng đi dự lễ. Trên đường tới nhà thờ tại Quảng Trị, phải đi qua thành phố Huế, thấy trang hoàng cổng chào nhà thờ và cờ Phật giáo rợp trời. Tổng Giám Mục Huế là Ông Ngô Đình Thục (anh ruột của Ông Ngô Đình Diệm), nuôi tham vọng được thăng chức Hồng Y, ra lệnh cho chính quyền địa phương cấm phật tử treo cờ Phật giáo trong dịp lễ Phật Đản, phật lịch năm 2507 (ngày 8- 5 - 1963). Do đó, ông Diệm liền hạ lệnh cho Quách Tòng Đức, Đổng lý văn phòng phủ Tổng Thống, cùng đi theo: Hãy gởi gấp công điện, khắp nơi phải hạ cờ Phật giáo xuống”. Đó là nguyên nhân chính xảy ra cuộc tranh đấu Phật giáo chống chính quyền ông Diệm vào mùa Phật Đản, năm 1963.
Các Tăng, Ni phật tử cảm thấy bị đàn áp tôn giáo nên tìm cách chống đối. Đúng ngày Phật Đản, Thượng tọa Trí Quang đọc diễn văn tại chùa Từ Đàm, với sự hiện diện của khá đầy đủ các viên chức chính quyền và quân sự, đòi hỏi bình quyền tôn giáo. Tối đó, Phật tử Huế biểu tình chống lệnh cấm treo cờ, rồi tụ họp trước đài phát thanh để yêu cầu phát lại bài diễn văn của Thầy Trí Quang. Chính phủ đàn áp vô cùng dã man. Kết quả là 8 Phật tử chết tại chỗ, 4 Phật tử bị thương phải mang vào bệnh viện cấp cứu.
Sáng hôm sau, Hòa thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, khẩn cấp triệu tập một phiên họp bất thường, gồm các vị lãnh đạo cao cấp Phật giáo, tại chùa Từ Đàm, Huế để tìm phương tiện đối phó với chính quyền và chính thức soạn thảo một bản Tuyên Ngôn gồm 5 điểm như sau để gởi tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
- Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ giáo kỳ Phật giáo.
- Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa giáo đã được ghi trong đạo dụ số 10.
- Yêu cầu chính phủ chấm dứt trình trạng bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật giáo.
- Yêu cầu cho Tăng Ni Phật tử được tự do truyền đạo và hành đạo.
- Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những người chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bù xứng đáng.
Đến ngày 10-5-1963, bản tuyên ngôn gồm năm nguyện vọng nêu trên đã được gởi đi khắp nước. Riêng tại Sài Gòn, đã được một sĩ quan Đại úy, người Phật tử, đích thân từ Huế mang vào chùa Ấn Quang và Xá Lợi đầy đủ bản Tuyên Ngôn nói trên cùng những hình ảnh về vụ thảm sát các Phật tử và chính quyền Huế.
Ngay sau đó, theo văn thơ chỉ thị của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đã thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam, gồm tất cả 11 tập đoàn giáo phái Phật giáo, dưới sự lãnh đạo tối cao của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, để trực tiếp gặp Tổng Thống Diệm hầu mong giải quyết đẹp đẽ mọi vấn đề giữa Phật giáo và chính phủ. Song, việc làm này không đạt được bất cứ việc gì cho Phật giáo.
Trong lúc đó, các cuộc biểu tình của Phật giáo vẫn tiếp diễn. Ở Huế thì có chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang và Diệu Đế; ở Sài Gòn, thì có chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Giác Minh và Từ Quang. Tất cả đều là trung tâm đầu não để xuất phát những cuộc biểu tình, tuyệt thực, thuyết pháp và họp báo để đương đầu có hiệu quả đối với chính quyền.
Ngày 21-5-1963, giáo lệnh của Hòa thượng Tịnh Khiết ban bố khắp nơi, đều phải tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân Phật tử tại đài phát thanh Huế.
Tại Sài Gòn, chùa Ấn Quang vâng lệnh tổ chức rước linh từ chùa Ấn Quang tới Xá Lợi để làm lễ cầu siêu. Mặc dầu Phật giáo có báo tin trước cho chính quyền Sài Gòn biết, tối hôm trước, ông Quách Tòng Đức, Đại diện Tổng Thống phủ; ông Nguyễn Phú Hải, Đô trưởng Sài Gòn Chợ Lớn và ông Quận Trưởng quận 5, đều đã có mặt tại chùa Ấn Quang để xin ngưng việc rước linh tới chùa Xá Lợi. Việc rước linh và diễu hành đầu tiên vẫn được tiến hành như đã dự định của Ủy Ban Liên Phái.
Vào 14 giờ, ngày 30-5-1963, đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ở Huế đã ra chỉ thị cho các cấp Phật giáo phải tổ chức tuyệt thực đòi hỏi chính quyền thực thi năm nguyện vọng. Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái chúng tôi tuân luyện tổ chức ngay một cuộc biểu tình tại Công trường Lam Sơn trước quốc hội, từ 12 giờ 5 phút tới 5 giờ chiều, rồi diễn hành, căng biểu ngữ, về tới chùa Xá Lợi tuyệt thực suốt 48 giờ. Dịp này có Bồ tát Thích Quảng Đức cũng tham dự tuyệt thực.
Sau cuộc tuyệt thực ở chùa Xá Lợi, Bồ tát Thích Quảng Đức đã viết thư gửi đến Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo xin được vị pháp thiêu thân. Thư viết tay trên một tờ giấy nhỏ để dễ cất giấu mang đi trong tình hình chính quyền Ngô Đình Diệm đang ra sức theo dõi và đàn áp Phật giáo. Nội dung thư ghi: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, hòa thượng trụ trì chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy nước nhà đương lúc ngả nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật pháp tiêu vong. Đạo pháp trong cơn nguy khốn mà tôi tuổi già sức mọn, không làm gì được nên tôi xin học đức Dược Vương, nguyện thiêu thân mình để cầu cho đạo pháp trường tồn. Ngưỡng mong liệt vị trưởng thượng tôn túc từ bi hứa khả và quyết định cho lúc nào  thực hiện. Xét đây là việc trọng đại nên tôi không dám quyết định. Một cuộc họp được mở ra khẩn cấp, với sự hiện diện của ngài Hội chủ, các Thầy Trí Thủ, Thiện Siêu, Thiện Minh và tôi”.
Hòa thượng Đức Nghiệp tìm cách bí mật trình lá thư đặc biệt này lên Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo Việt Nam. Ngay sau đó, các vị lãnh đạo Phật giáo cấp cao đã họp khẩn cấp để xem xét. Cuối cùng, họ kết luận rất trân trọng nguyện vọng của Bồ tát Thích Quảng Đức, nhưng xét thấy tình hình chưa thật sự cần thiết nên tạm dừng lại. Sau này kể lại cuộc họp đặc biệt đó, hòa thượng Thích Đức Nghiệp cho rằng: “Thật ra Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo VN lúc đó cũng lúng túng. Mọi người chưa từng thực hiện điều này”.
Cuộc đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng ngày càng khốc liệt hơn. Trước ngày chùa Phật Bửu tự trên đường Cao Thắng, Sài Gòn làm lễ rước linh, cầu siêu cho các phật tử bị giết ở Huế. Lúc ấy, Hòa thượng Thích Đức Nghiệp đang ở chùa Ấn Quang thì được mời sang gấp chùa Xá Lợi để họp khẩn cấp. Hòa thượng phải đi trên ôtô kín đáo để tránh tai mắt cảnh sát.
Khi ông đến nơi đã thấy các thầy Tâm Châu, Thiện Hoa ngồi trầm tư ở phòng khách. Họ nói ngay: “Tình thế Phật giáo lâm nguy lắm rồi. Nhiều thầy ở Huế đã bị bắt. Lương thực, điện, nước ở một số chùa cũng bị cắt. Tin chính quyền truyền ra là các thầy phải đầu hàng hoặc sẽ bị bắt trục xuất vĩnh viễn ra nước ngoài. Nếu mình cứ rước linh, tuyệt thực để biểu tình thì không hiệu quả. Mọi người tính sao”. Thượng tọa Tâm Châu nói theo: “Ngày mai, buổi sáng chủ nhật, tới phiên tôi rước linh và cầu siêu tại Phật Bửu Tự, do Hòa thượng Thích Minh Trực tổ chức, tại đường Cao Thắng, Quận 3. Vậy Thầy về hỏi lại ý nguyện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức, hiện đương tụng kinh Pháp Hoa tại Ấn Quang. Nếu Hòa thượng đồng ý, thì ngay sau khóa lễ ở Phật Bửu Tự, trên đường về Xá Lợi, Thầy tìm mọi cách có hiệu quả nhất, để Hòa thượng Quảng Đức được tự nguyện tự thiêu, đồng thời để cứu nguy cho Phật giáo hiện nay”.
Hòa thượng Thích Đức Nghiệp trả lời: “Con xin nhận lãnh trách nhiệm quan trọng này. Nếu không có gì trở ngại, con sẽ không gọi điện thoại để bảo đảm bí mật”. Ngay tối đó, hòa thượng Thích Đức Nghiệp về gấp chùa Ấn Quang gặp Bồ tát Thích Quảng Đức mới tụng kinh Pháp Hoa xong. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp hỏi: “Thưa, Hòa thượng còn giữ ý định tự thiêu như tâm thư đã gửi không?”
Bồ tát Quảng Đức liền chắp tay trả lời: “Mô Phật! Lúc nào con cũng xin sẵn sàng tự thiêu để cúng dường tam bảo và sự trường tồn của Phật giáo”. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp ứa nước mắt xúc động nói:
- Vậy Hòa thượng hãy đi nghĩ và sáng mai, con sẽ tổ chức cho Hòa thượng tự thiêu cho Hòa thượng được thành tựu viên mãn”. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp hỏi thêm:
- Thưa, hòa thượng có muốn nhắn nhủ gì nữa không?
Bồ tát Quảng Đức trả lời:
- Đại đức cho tôi được lễ tạ Phật và Thượng tọa Thiện Hoa, tôi sẽ nói: Ngày mai tôi phải đi xa vì Phật sự, đồng thời cho tôi viết một lá thơ gởi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm”.
Hòa thượng Thích Đức Nghiệp dặn dò: “Xin thầy đừng nói thêm gì về việc tự thiêu nhé!”. “Vâng, tôi sẽ chỉ nói lời tạm biệt để ngày mai đi xa” - Bồ tát Thích Quảng Đức chắp tay xá Phật, trả lời thanh thản.
Sau khi nói chuyện với Ðại Ðức Thích Ðức Nghiệp xong, Bồ tát Thích Quảng Đức bình thản như không có chuyện gì, lúc ấy là 7 giờ 30 đêm 10-6-1963, Ngài lên chánh điện Chùa Ấn Quang chủ lễ khóa Tịnh Ðộ thường ngày. Buổi lễ cuối cùng ấy có Ðại Ðức Huệ Thới đánh chuông, Ðại Ðức Ðức Niệm đánh mõ. Ðại chúng hiện diện đều không ai biết một biến cố quan trọng sắp xảy ra. Sau khi Phật tử về hết, tại giữa chánh điện, Bồ tát Thích Quảng Đức mới tâm sự với hai Ðại Ðức rằng:
Vì đạo pháp tôi xin hiến thân giả huyễn này để cho pháp nạn được giải thoát. Ngày mai này tôi sẽ từ giã cõi đời, hẹn gặp hai Thầy ở cảnh giới Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói điều này với các Ngài lãnh đạo:
Một là, sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ còn lưu lại một vật gì đó cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Ðạo Pháp và đó cũng là thành quả đời tu hành của tôi.
Hai là, khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì quý Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái... để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật Giáo sẽ không thành.
Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các Thầy có cảm thấy triệu chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan qua ngày khác.
Sau khi tạm biệt Bồ tát Thích Quảng Đức, thầy Thích Đức Nghiệp đến phòng Thượng tọa Thiện Hoa mới ở Xá Lợi về để xin ít tiền mua sắm xăng để thiêu và vải để viết biểu ngữ cho sáng ngày mai. Tiếp theo Hòa thượng Thích Đức Nghiệp gọi anh lái xe ô tô Austin của Phật tử Trần Quang Thuận gởi ở Ấn Quang và nhờ anh ta đi mua xăng và vải, đồng thời tôi nhờ anh ấy chở Hòa thượng Quảng Đức đi dự lễ tại Phật Bửu Tự.
Sau đó, Hòa thượng Thích Đức Nghiệp họp phân công công việc vào việc sáng mai. Theo đó: Thầy Chân Ngữ có trách nhiệm đổ hết xăng từ đầu tới chân Hòa thượng Quảng Đức khi cùng ngồi trên xe Austin để đi tới ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trước tòa Đại sứ Campuchia (Nước này tỏ rõ thái độ ủng hộ Phật giáo Việt Nam và phản kháng hành động đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm.); Thầy Trí Minh phải ngồi cùng hàng ghế trước để bảo anh lái xe phải dừng lại ở ngã tư đường nói trên, rồi làm bộ chữa xe để Hòa thượng bước xuống đường và ngồi tự thiêu; Thầy Hồng Huệ giữ trật tự, Tăng Ni đi thành hai hàng và xe của Hòa thượng từ từ đi ở giữa.
Sáng ngày 11-6-1963, khi chiếc Austin vừa đi tới ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, tài xế dừng lại và ra mở nắp máy xe để đánh lừa cảnh sát. Phía sau, Bồ tát Thích Quảng Đức khoan thai bước xuống xe, chắp tay xá bốn phương, rồi tĩnh tại ngồi kiết già trên đường, mặt quay về hướng tây, miệng lâm râm niệm Phật. Bồ tát lấy bật lửa trong người ra để châm lửa, nhưng có lẽ đá lửa bị ngộp xăng lúc rưới vào người nên không cháy. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp phải đưa cho Ngài thêm một bao diêm.
Lúc đó, một nhà sư đứng gần cũng giúp Bồ tát Thích Quảng Đức rưới xăng còn thừa trong chiếc can nhựa mang xuống từ trên xe lên người Ngài.
Mọi việc diễn ra nhanh chóng để cảnh sát đặc biệt chống biểu tình không kịp phản ứng. Khi bàn tay Bồ tát Thích Quảng Đức vừa thả que diêm xuống, ngọn lửa bùng lên rừng rực như bó đuốc khổng lồ bao quanh bồ tát. Ngài vẫn tĩnh tại ngồi kiết già, tay chắp trước ngực, gương mặt không lộ chút nét đau đớn.
Tăng ni, phật tử bao quanh Ngài. Người lâm râm tụng kinh, người hô to khẩu hiệu chống chính quyền. Nhiều người, kể cả một số cảnh sát chống biểu tình đã quỵ xuống khóc và lạy bồ tát đang vị pháp thiêu thân...
Những người chứng kiến kể rằng lửa rừng rực bao kín thân ngài và bốc lên cao như một bó đuốc sống. Đất trời nổi gió, lửa bị thổi bạt nghiêng làm hiện rõ gương mặt Bồ tát Thích Quảng Đức dù đã bị hỏa thiêu sạm đen nhưng vẫn bình thản, siêu thoát.
Khoảng 15 phút sau ngọn lửa tàn dần. Ngài ngã bật ra, tay vẫn co trước ngực. Khi ngọn lửa tự thiêu tắt hẳn, hòa thượng Thích Đức Nghiệp và đồng đạo lấy cờ Phật quấn thi hài Bồ tát Thích Quảng Đức. Tuy nhiên, lá cờ không thể bọc kín ngài được vì ngài ra đi trong tư thế tay chắp trước ngực, hai chân vẫn hơi co lại như đang ngồi thiền.
Lúc này, tiếng khóc của các tăng ni và dân chúng át cả tiếng ồn ào, la hét của lực lượng cảnh sát. Đám rước thi hài ngài về chùa Xá Lợi đã kéo theo một đoàn tăng ni, phật tử và dân chúng dài hàng cây số. Họ tiễn đưa một bồ tát đã cung hiến thân mình cho đạo pháp và hòa bình dân tộc.
Lúc thi hài bồ tát về đến cổng chùa Xá Lợi, cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền dù đã lớn tuổi và trải bao dâu bể thăng trầm cũng không nén nổi tiếng khóc xúc động. Cụ nằm ra đất, lăn mình theo thi hài bồ tát vào đến tận trong chùa.
Tang lễ Bồ tát Thích Quảng Đức ở chùa Xá Lợi trở thành một sự kiện trọng đại của Sài Gòn trong những ngày giữa tháng 6-1963. Tăng ni, phật tử và dân chúng ở các địa phương nghe tin đã nhanh chóng về Sài Gòn để thắp hương tiễn biệt ngài lần cuối.
Lượng người đổ về chùa Xá Lợi càng lúc càng đông khiến lực lượng cảnh sát, mật vụ chính quyền Ngô Đình Diệm phải ra sức ngăn chặn nhằm giảm thiểu ý nghĩa linh thiêng và quy mô của tang lễ. Họ vây chặt vòng ngoài, ấn định số lượng giới hạn người được vào lễ tang. Thậm chí một số đối tượng giả dạng thương binh còn đến quấy rối, đe dọa tăng ni, phật tử...
Sau 5 ngày quàn tại chùa Xá Lợi để tăng ni phật tử tới viếng, nhục thân của Bồ tát Thích Quảng Đức được đưa ra An Dưỡng Địa, Phú Lâm hỏa thiêu. Việc hỏa thiêu lẽ ra đã sớm hơn một ngày, nhưng có tin cảnh sát của chính quyền Ngô Đình Diệm sẽ có hành động ngăn chặn nên phải tạm hoãn.
Cuối cùng thì nhục thân của Ngài cũng được đưa vào lò thiêu có sức nóng hàng ngàn độ, nung chảy cả sắt thép. Sau nhiều tiếng đồng hồ đốt trong lò với sức nóng 4000oC, kim quan và nhục thân Ngài đã biến thành tro bụi, nhưng một kỳ tích ngoài tưởng tượng của mọi người là quả tim vẫn còn đỏ hồng, lúc đầu ở trạng thái mềm và său dần dần cứng như sắt. Sự kiện linh thiêng kỳ lạ này được các nhà sư cấp báo về chùa Xá Lợi. Những hòa thượng lãnh đạo Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo quyết định đưa trái tim của ngài vào thiêu thêm lần nữa. Thật kỳ lạ trái tim vẫn tiếp tục nguyên vẹn và trở thành một khối rắn chắc như đá. Theo cố hòa thượng Thích Thông Bửu, sau khi đốt cháy hết xương thịt mà vẫn còn trái tim, nghĩ trái tim bằng cơ nhục khó cháy, nên các hòa thượng đã quyết định đốt tiếp để thân thể ngài về nơi cực lạc được vẹn nguyên. Thế nhưng, sau khi mở lò thiêu, trái tim vẫn không hề suy suyển gì đúng như tâm nguyện của Ngài trước Tam Bảo khi phát nguyện tự thiêu “sẽ lưu lại một vật gì đó cho đời”. Trái tim kỳ lạ của hòa thượng Thích Quảng Đức khiến phong trào đấu tranh của Phật giáo diễn ra rất mạnh mẽ.
Chính nhờ ngọn lửa tự thiêu đầu tiên của Hòa thượng Quảng Đức, đã vận động thêm sáu vụ tự thiêu khác của Tăng Ni trên toàn quốc, kể cả đầu tháng 8-63 tới cuối tháng 10-63, cộng với những cuộc biểu tình, tuyệt thực, đình công, bãi khóa của các giáo sư, sinh viên, học sinh và đồng bào Phật tử như:
- Ngày 4-8-63, tại đài Chiến sĩ, trước tòa Tỉnh Trưởng Phan Thiết, Thầy Thích Nguyên Hương đã tự thiêu.
- Ngày 13-8-63, trong khuôn viên chùa Phước Duyên, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, Thầy Thích Thanh Tuệ đã thực hiện tự thiêu rất hào hùng và anh dũng.
- Ngày 15-8-63, tại quận Ninh Hòa gần tỉnh Nha Trang, Ni sư Diệu Quang, người đầu tiên trong Ni bộ, cũng tự thiêu để noi gương của Hòa thượng Quảng Đức.
- Ngày 16-8-63, tại chùa Từ Đàm Huế, Thượng tọa Tiêu Diêu đã tự thiêu để cứu nguy Phật giáo và Dân tộc.
- Ngày 5-10-63, trước chợ Bến Thành Sài Gòn, Thầy Thích Quảng Hương từ Buôn Ma Thuột vào đây tự thiêu.
- Ngày 27-10-63, trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Thầy Thích Thiện Mỹ người sau cùng, đã tự thiêu trong khi phái đoàn Liên Hiệp Quốc đang có mặt tại Sài Gòn và trước năm ngày khi có cuộc đảo chính, 1-11-63.
Theo hòa thượng Thích Đức Nghiệp, trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức được đặt quả tim linh thiêng của Bồ tát Thích Quảng Đức vào bình thủy tinh và cung thỉnh về chùa Xá Lợi.
Sau khi thỉnh về chùa Xá Lợi được cất trong tủ sắt của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Đêm 20-8-1963, cảnh sát đã tràn vào đây bắt bớ các hòa thượng và lục lọi cướp trái tim, nhưng không hiểu điều huyền bí nào đã che mắt họ không thể nhìn thấy trái tim linh thiêng.
Về sau, trái tim được đưa qua chùa Việt Nam Quốc Tự để hòa thượng Thích Từ Nhơn bảo vệ. Lúc đó, trái tim đã được đặt trong một chiếc tháp đồng cao gần nửa mét mà nhìn từ ngoài vào không thể thấy bên trong. Nắp tháp được đóng kín và có chữ ký niêm phong của Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết.
Năm nay đã 85 tuổi và trụ trì Việt Nam Quốc Tự, hòa thượng Thích Từ Nhơn vẫn còn minh mẫn kể rằng ông đang tu dưới Sa Đéc thì được Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết gọi lên Sài Gòn nhận nhiệm vụ đặc biệt của Phật giáo.
Nhận bảo vệ trái tim Bồ tát, đầu tiên hòa thượng Thích Từ Nhơn cất nguyên chiếc tháp chứa trái tim Bồ tát trong tủ sắt lớn ở phòng trụ trì Việt Nam Quốc Tự. Lúc đó khuôn viên Việt Nam Quốc Tự rất rộng, cây cối um tùm. Phòng trụ trì chỉ là một gian nhà đơn sơ. Cảnh sát và mật vụ thường xuyên tràn vào trấn áp, quấy nhiễu phật sự nơi này.
Hòa thượng Thích Từ Nhơn xin gửi vào chi nhánh Ngân hàng Pháp ở Sài Gòn. Ngân hàng giao cho ông một két sắt dưới tầng hầm và trái tim được ông đặt vào tháp đồng rồi cất trong két đó. Ngân hàng chỉ có hai chìa khóa mở két. Ông giữ một chìa, chìa kia do trụ sở ngân hàng chính giữ ở Pháp. Chi nhánh ngân hàng ở Sài Gòn cũng không có chìa để có thể tự mở được két này.
Trước năm 1975 ông thường vào thăm trái tim Bồ tát. Nhân viên ngân hàng chỉ mở cửa tầng hầm rồi để tự ông vào mở két sắt. Không được hương khói dưới hầm ngân hàng, ông đành ứa nước mắt, vái lạy trái tim linh thiêng: “Hoàn cảnh đất nước loạn lạc chưa cho phép chúng con thỉnh trái tim từ bi của ngài về thờ phụng đàng hoàng”.
Sau năm 1975, Nhà nước gìn giữ trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức một thời gian. Đến năm 1991, trái tim được giao lại Ngân hàng Nhà nước ở TP.HCM gìn giữ trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền, ngân hàng và hòa thượng Thích Từ Nhơn, Thích Giác Toàn, Thích Thiện Hào. Không ai mở ra xem tình trạng trái tim, nhưng thấy chiếc tháp đồng chứa trái tim vẫn nguyên vẹn chữ ký niêm phong của Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết. Theo hòa thượng Thích Từ Nhơn, từ đó đến nay không ai mở ra xem nữa.
Trong một cuộc họp báo, có phóng viên quốc tế hỏi Hòa thượng Thích Đức Nghiệp về bí ẩn khó hiểu của trái tim không thể bị thiêu cháy này, hòa thượng trả lời:“Đó là do ngài Thích Quảng Đức phát đại thệ nguyện, nung nấu một ý chí phi thường vì đạo pháp và hòa bình cho dân tộc nên đã biến thành một năng lượng đặc biệt làm trái tim bất hoại”. Nhiều cao tăng khác lại cho rằng: “Trong khi Bồ tát Thích Quảng Đức ngồi thiền để tự thiêu thì Bồ tát đã dùng lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch mà lửa thường không thể đốt nổi. Lửa tam muội đã khiến trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức thành Kim Cang bất hoại”.
Nghĩ lại ba điều Bồ tát Thích Quảng Đức nói đêm trước ngày tự thiêu đều hiển ứng:
- Thân thể Ngài thiêu thành tro, mà quả tim của Ngài vẫn còn đỏ hồng dưới sức nóng 4.000 độ; nóng đến nỗi lò thiêu An Dưỡng Ðịa đã phải nứt nẻ.
- Khi ngọn lửa thiêu thân vừa lặn tắt, ba lần Ngài cuối đầu xá về hướng Tây, như thể cúi chào tăng ni Phật tử, rồi nhẹ nhàng bật ngửa người nằm im trên mặt đất giữa ngã tư đường Phan Ðình Phùng và Lê Văn Duyệt trong tiếng niệm Phật vang dội của hàng trăm chư Tăng Ni đang ngồi vây quanh chấp tay thành kính. Tư thế viên tịch đúng như Ngài huyền ký lại, làm cho Tăng tín đồ tin tưởng vào sự thành công nguyện vọng bình đẳng tôn giáo mà quyết tâm dấn thân hơn. Chung cuộc chánh nghĩa đã thắng.
- Theo chương trình, thời gian di quan của Bồ tát Thích Quảng Đức ra An Dưỡng Ðịa để thiêu. là 10 giờ sáng. Dân chúng ở hai bên đường Phan Thanh Giản và đường Minh Mạng lập hương án để tiễn đưa Ngài nhưng mọi người đợi mãi đến hơn 12 giờ trưa mà vẫn chẳng thấy đâu. Sau đó mới nhận được thông báo của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo cho biết dời ngày di quan. Dân chúng lúc bấy giờ vô cùng bang hoàng kinh ngạc. Khoảng 2 giờ chiều hôm ấy, người ta thấy năm bảy người mặc sắc phục đen lặng lẽ từ dưới bờ ruộng bước lên gỡ những quả mìn đã được chôn từ lúc nào trên quãng đường đất dẫn đến lò thiêu của An Dưỡng Ðịa.
 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn