Lê Hoàn sinh năm 941 trong một gia đình nghèo, bố mẹ mất sớm, tuổi thơ của ông đầy gian nan, cực nhọc. Thân mẫu của Lê Hoàn, người họ Đặng, trước đó, khi đang mang thai, bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và kết thành hạt sen ngay, bà lấy hạt sen ấy đem chia cho mọi người nhưng phần mình lại không ăn. Đến khi sinh Lê Hoàn, vừa thoáng thấy mặt mũi đến hình dáng đều khác thường, bà nói với mọi người: - Thằng bé này về sau ắt sẽ được sang giàu hơn người, chỉ tiếc là tôi không kịp được hưởng lộc mà thôi. Thế rồi được độ vài năm, bà mất và sau đó cha của Lê Hoàn cũng qua đời. Bấy giờ, có viên quan người họ Lê, người Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa) thấy Lê Hoàn có dung mạo khác thường, bèn nhận làm con nuôi. Một hôm, mùa đông giá rét Lê Hoàn phải nằm phục xuống như hình cái cối úp cho đỡ buốt, chẳng dè đêm ấy, nhà sáng rực cả lên vì có con rồng vàng nằm che lên cho Lê Hoàn.
1. Sơ lược về Lê Hoàn
Lê Hoàn sinh năm 941 trong một gia đình nghèo, bố mẹ mất sớm, tuổi thơ của ông đầy gian nan, cực nhọc. Thân mẫu của Lê Hoàn, người họ Đặng, trước đó, khi đang mang thai, bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và kết thành hạt sen ngay, bà lấy hạt sen ấy đem chia cho mọi người nhưng phần mình lại không ăn. Đến khi sinh Lê Hoàn, vừa thoáng thấy mặt mũi đến hình dáng đều khác thường, bà nói với mọi người:
- Thằng bé này về sau ắt sẽ được sang giàu hơn người, chỉ tiếc là tôi không kịp được hưởng lộc mà thôi. Thế rồi được độ vài năm, bà mất và sau đó cha của Lê Hoàn cũng qua đời. Bấy giờ, có viên quan người họ Lê, người Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa) thấy Lê Hoàn có dung mạo khác thường, bèn nhận làm con nuôi. Một hôm, mùa đông giá rét Lê Hoàn phải nằm phục xuống như hình cái cối úp cho đỡ buốt, chẳng dè đêm ấy, nhà sáng rực cả lên vì có con rồng vàng nằm che lên cho Lê Hoàn. Viên quan người họ Lê càng lấy làm lạ nên càng chăm lo cho Lê Hoàn để sau này mưu việc lớn. Lớn lên Lê Hoàn giúp việc cho Nam Việt Vương Đinh Liễn, ông tỏ ra tài giỏi và có chí lớn hơn người. Đinh Tiên Hoàng khen Lê Hoàn là người giàu mưu trí và có sức mạnh, bèn giao cho quyền được cai quản hai ngàn quân. Sau đó, Lê Hoàn được thăng dần lên đến chức Thập đạo Tướng quân, Điện tiền chỉ huy sứ.
Năm 960, Triệu Khuông Dận lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Tống Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Tống (960 – 1278). Ngay sau khi lên ngôi, cũng như bao Hoàng Đế Trung Hoa khác Tống Thái Tổ đã mưu tính bành trướng xuống phương Nam. Nhưng kế sách chưa thực hiện được thì Tống Thái Tổ qua đời. Người kế vị là Triệu Khuông Nghĩa (tức Tống Thái Tông) quyết nối chí lớn của Tống Thái Tổ, ngày đêm lo nghĩ mưu đồ thôn tính nước ta. Đang khi Tống Thái Tông chưa tìm được cơ hội thuận tiện thì ở nước ta, Đinh Tiên Hoàng qua đời và ngay sau đó là cuộc xung đột vũ trang giữa phe của Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp với phe của Lê Hoàn. Quan biên ải phía Nam của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dò biết được mọi sự bèn xin được về triều để báo cáo tình hình.
Hầu Nhân Bảo dâng thư về triều tâu rằng, ở nước ta đang có biến loạn, triều đình chỉ cần đem một ít quân sang là cũng đã có thể chiếm lấy được. Hầu Nhân Bảo cũng xin được về triều để trình bày việc này. Vua Tống nhận được thư, mừng lắm, toan triệu Hầu Nhân Bảo về kinh, nhưng Lư Đa Tốn (kẻ có hiềm thù với Hầu Nhân Bảo và đặc biệt là với Triệu Phổ, anh vợ của Hầu Nhân Bảo) lại tâu rằng: “Nước nhỏ kia đang có nội loạn, đó chính là cơ trời khiến chúng phải mất, thế thì ta nên xuất kì bất ý mà đánh úp, tức là làm theo lối sét đánh thình lình, che tai không kịp. Nay nếu có lệnh cho Hầu Nhân Bảo về trước thì mưu kia tất phải bị lộ, bọn họ biết mà đề phòng, ta không dễ gì lấy được đâu. Vậy, chi bằng hãy mật sai Hầu Nhân Bảo ngầm lo mọi việc, sau mới xuất quân đánh tràn sang, thắng lợi mười phần cầm chắc cả mười. Vua Tống cho lời ấy là phải, bèn phong cho Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu thủy lục Chuyển vận sứ, lại phong cho bọn Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng và Giả Thực được quyền nắm binh mã, hẹn ngày cùng kéo sang xâm lược nước ta[1].
2. Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế
Tháng 7 năm Canh Thìn (980) được tin quan giữ đất Lạng Châu (vùng Lạng Sơn và Quảng Ninh ngày nay) trình báo về việc quân Tống tràn sang xâm lược nước ta, thái hậu Dương Vân Nga bèn sai Lê Hoàn tuyển lựa dũng sĩ để chống lại. Triều đình cho Phạm Cự Lượng (em của Phạm Hạp, người Nam Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương) làm Đại tướng, được quyền bày mưu tính kế đánh giặc. Phạm Cự Lượng cùng các tướng, mặc nguyên quân phục, vào thẳng nội điện, nói thẳng với mọi người rằng:
- Thưởng người có công, trị người phạm tội, ấy là phép dùng binh. Nay, chúa thượng thì thơ ấu, dẫu bọn ta có liều chết mà đánh rồi may lập được chút công lao, thì ai sẽ là người biết cho? Vậy thì chi bằng trước hãy tôn ngay quan Thập đạo Tướng quân lên ngôi Thiên Tử rồi sau đó mới xuất quân. Quân sĩ nghe vậy thì đều tung hô “vạn tuế”. Dương Thái hậu cũng một lòng mến phục, liền sai lấy tấm Long Cổn khoác lên người Lê Hoàn, rồi cũng chính Dương Thái hậu khuyên Lê Hoàn lên ngôi. Lê Hoàn lên ngôi, đổi niên hiệu là (Thiên Phúc), giáng Hoàng đế là Đinh Toàn xuống làm Vệ Vương như cũ[2].
Khi quân Tống tràn sang xâm lược nước ta, Hầu Nhân Bảo kéo đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến Bạch Đằng. Lê Hoàn tự mình làm tướng để chống giặc, sai quân đóng cọc gỗ ở sông Bạch Đằng để cản đối phương. Quân Tống quá đông nên quân ta đánh có phần bất lợi, hai trăm thuyền chiến bị giặc cướp. Hầu Nhân Bảo đem quân tiến lên trước nhưng Tôn Toàn Hưng thì đóng quân lại, tỏ ý dùng dằng, khiến cho Hầu Nhân Bảo phải mấy phen thúc giục. Khi quân Hầu Nhân Bảo tới, Lê Hoàn sai người trá hàng rồi lập mưu, dụ bắt được Hầu Nhân Bảo đem chém. Bọn Lưu Trừng sợ quá bèn rút lui, Trần Khâm Tộ nghe tin cũng tháo chạy trở về. Lê Hoàn sai tướng xuất quân truy kích. Trần Khâm Tộ thua to, quân lính chết hơn quá nửa. Bộ tướng của giặc là Quách Quân Biện và Hứa Trọng Tuyên đều bị bắt giải về kinh đô. Quan giữ chức Chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên viết tờ tâu về triều, báo cáo việc thua trận. Vua Tống bèn hạ lệnh rút lui.
3. Lê Hoàn tiếp sứ nhà Tống
Khi lên ngôi, Lê Hoàn coi nhà Tống là Thiên triều, vua Tống là Thiên tử, còn mình thì chịu sự tấn phong dần dần từ thấp lên cao. Theo lễ, vua chư hầu phải tổ chức đón tiếp sứ giả Thiên triều một cách thật trọng thể. Với những sứ giả mang sắc phong của Thiên tử đến thì lễ đón tiếp phải càng trọng thể hơn. Nhưng chuyện Lê Hoàn tiếp sứ giả của Thiên triều thì khác hẳn. Một lần, Lê Hoàn tiếp phái bộ sứ giả nhà Tống do Tống Cảo cầm đầu. Phái bộ này đến nước ta vào năm Canh Dần (990).
Nhà Tống sai quan giữ chức Tả Chính Ngôn là Tống Cảo, quan giữ chức Hữu Chính Ngôn là Vương Thế Tắc mang tờ chế sắc sang phong thêm cho Nhà vua hai chữ đặc tiến. Vua sai bọn Nha nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem chín chiếc thuyền đến tận Thái Bình (đất này nay thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc) để dẫn sứ giả theo đường biển mà vào. Nửa tháng sau thì sứ giả đến sông Bạch Đằng rồi cứ thế, theo thủy triều mà đi[3]. Mùa thu, tháng chín, sứ giả đến trạm Nại Chinh ở Trường Châu (thuộc Ninh Bình). Nhà vua đích thân ra ngoài thành để tiếp. Khi tiếp thì bày các thứ chiến cụ để khoe với sứ giả nhà Tống. Vua cầm cương ngựa, cùng đi với sứ giả. Đến cửa Minh Đức (tên một cửa trong kinh thành Hoa Lư), nhà vua để chiếu thư lên trên điện chứ không chịu lạy, nói dối rằng, năm ngoái đi đánh giặc man, ngã ngựa nên đau chân. Tống Cảo và Vương Thế Tắc tin ngay là thực. Sau đó, Vua bày yến tiệc để thiết đãi sứ giả.
Sau bữa tiệc, Lê Hoàn cho người khiêng một con trăn lớn dài vài trượng, đến quán dịch nói với sứ nhà Tống:
– Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời.
Sứ Tống khiếp đảm từ chối.
Lần khác, Lê Hoàn dắt tới hai con hổ dữ để sứ thần thử ngoạn. Sứ thần lại một phen sợ toát mồ hôi.
Sau đó, Lê Hoàn nói với Tống Cảo rằng: Từ nay trở đi, hễ có quốc thư thì chỉ nên giao nhận ở biên giới, không phiền sứ giả phải đến tận đây nữa.
Tống Cảo về tâu lại với vua Tống. Vua Tống bằng lòng.
Một lần, Lê Hoàn tiếp phái bộ sứ giả của nhà Tống do Lý Nhược Chuyết cầm đầu, đến nước ta vào năm Bính Thân (996). Vua nhà Tống sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho Vua. Khi Lý Nhược Chuyết đến, Vua cũng ra tận phía ngoài thành để đón nhưng lại tỏ cho sứ giả thấy mình cao quý khác thường, ngạo mạn không chịu làm lễ. Nhân vì Lý Nhược Chuyết có ý phiền, rằng sao Nhà vua lại nỡ để cho quân lính tràn sang cướp phá châu Như Hồng của nhà Tống. Vua nói:
- Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn cướp biển ở ngoài cõi, Hoàng đế hẳn biết là không phải quân của ta. Nếu như Giao Châu mà làm phản thì trước hết sẽ cho quân đánh vào Phiên Ngung, sau đó đánh thẳng vào Mân Việt, há có phải là dừng lại ở trấn Như Hồng mà thôi đâu[4].
4. Nhà Lê suy vong
Lê Hoàn có tất cả mười hai người con trai, gồm mười một con ruột và một con nuôi. Mười một hoàng tử tên là: Long Thau, Ngân Tích, Long Việt, Long Đinh, Long Đĩnh, Long Ngận, Long Tung, Long Tương, Long Kính, Long Mang, Minh Đề
[5]. Các con của Lê Hoàn đều ham mê quyền lực và ngấm ngầm giành ngôi vua nên gây ra chiến tranh liên miên. Lê Long Đĩnh là con thứ năm của Lê Hoàn. Năm Ất Tị (1005), Lê Hoàn băng hà. Sau khi Lê Hoàn mất không lâu thì cuộc chiến để giành ngôi giữa các con của Lê Hoàn diễn ra. Cuối cùng, Lê Long Đĩnh đã cướp được ngôi báu và làm vua gần 5 năm (1005 - 1009). Chính sử viết về nhân cách của Lê Long Đĩnh như sau: “
Vua vốn tính hiếu sát. Có tội nhân phải tội chết, Vua bắt lấy cỏ tranh cuốn vào người rồi đốt, hoặc giả có lần sai tên hề là Liêu Thủ Tâm, lấy con dao thật cùn, xả vào người tội nhân cho chết dần, làm như thế, tội nhân phải kêu la thảm thiết đến vài ngày”
[6].
Liêu Thủ Tâm thấy vậy thì bỡn cợt rằng: “Mày không quen chịu chết à”. Nhà vua thấy thế cũng cười to lên, lấy làm thích thú lắm. Mỗi khi đi đánh trận, họ bắt được tù binh là vua lại sai áp giải họ đến bờ sông. Khi nước thủy triều xuống thì sai làm cái rọ, đặt sẵn dưới nước cạn và nhốt tù binh vào đó để đến khi nước triều lên thì tù binh sẽ bị chết chìm dưới nước. Lại cũng có lần nhà vua bắt tù binh phải trèo lên cây cao rồi sai người chặt cây cho ngã xuống mà chết. Có lần nhà vua đi chơi ở khúc sông có lắm thuồng luồng, bèn sai trói tù binh vào mạn thuyền, chạy qua chạy lại, lấy họ làm mồi cho thuồng luồng. Trong cung, phàm những con vật đem vào nhà bếp, vua đều tự tay cắt tiết rồi sau mới giao cho đầu bếp làm. Có lần, vua kê mía lên đầu bậc tu hành khả kính là Tăng Thống Quách Ngang để róc mà ăn. Vua giả vờ lỡ tay, khiến dao phập vào đầu nhà sư Quách Ngang, máu chảy ra lênh láng. Vua thấy vậy thì cười ầm lên. Có đêm, vua sai làm thịt mèo để thiết đãi các quan. Các quan ăn xong, ai nấy nôn thốc nôn tháo cả ra. Khi các quan có việc phải vào và tâu trình các việc thì vua lại sai những tên hề ra nói leo, khỏa lấp hết mọi lời của quan. Có lần, kẻ giữ cung làm món chả, vua cùng với mọi người chạy đến tranh ăn. Bấy giờ, các bậc vương giả chống đối đều bị vua dẹp yên hết cả. Vua đi đánh các châu Đô Lương và Cử Long (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), bắt được người Man cùng với khoảng vài trăm con ngựa. Vua sai lấy gậy đánh bọn người Man bị bắt. Vì bị đánh quá đau, họ kêu la ầm ĩ, lỡ xúc phạm tới tên húy của Đại Hành (tức Lê Hoàn, thân sinh của Vua), thì Vua lại thích chí cười ồ lên và lại sai đánh nữa. Mỗi lần bị đánh là mỗi lần họ lại xúc phạm đến tên húy của Đại Hành, nhưng Nhà vua lại lấy đó làm vui. Đi đánh Ái Châu (tức vùng Thanh Hóa ngày nay), bắt được người của châu này, Vua sai làm cái rọ, nhốt họ vào đó rồi cười. Những việc làm này đều do Liêu Thủ Tâm bày ra nhằm mua vui cho vua Lê Long Đĩnh. Liêu Thủ Tâm vốn là một tên hề, được vua nhà Tống ban tặng cho vua Lê Long Đĩnh. Hắn theo chân hoàng tử Minh Đề về nước ta và đã gây ra không biết bao nhiêu trò đùa tai hại, độc ác. Chính vì việc làm này mà cả triều đình và nhân dân đều căm ghét Long Đĩnh.
Mùa đông, tháng 10 (năm Kỉ Dậu, 1009), ngày Tân Hợi, Vua băng ở tẩm điện, gọi là Ngọa Triều (Hàng Ðế) bởi vì Nhà vua có bệnh trĩ, mỗi khi ra chầu triều đều phải nằm. Người lên thay họ Lê là họ Lý (đúng như câu sấm truyền).
Như vậy, nhà tiền Lê tồn tại 29 năm trải qua 3 đời vua là Lê Đại Hành (980-1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Long Đỉnh (1005-1009).
Nhà Lê gặp lúc nguy nan, khi quân Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, Thái Hậu Dương Vân Nga đã lấy Long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau trở thành vợ Lê Hoàn. Dân ở đây lập đền thờ tô hai pho tượng Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và Dương Vân Nga cùng ngồi. Vùng Hoa Lư còn lưu truyền nhiều truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga để ghi nhận công lao của bà. Đến thời Lê Mạc, An phủ sứ Lê Thúc Hiển ra lệnh cấm việc thờ chung ba nhân vật của sự nghiệp thống nhất hồi đầu thế kỷ 10 thì dư luận phê phán quyết liệt.
Truyền thuyết ở Hoa Lư còn kể rằng:
Sau khi Lê Thúc Hiển làm cái việc buộc lụa trắng vào cổ tay bức tượng Dương Vân Nga, dong tượng bà từ đền thờ Đinh Bộ Lĩnh về đền thờ Lê Hoàn, khi trở về đến kinh thành, viên quan họ Lê ấy đã lăn ra chết tươi vì đứt ruột[7].
[1] Khâm định Việt sử thông giám cương mục - quyển 1.
[2] Khâm định Việt sử thông giám cương mục - quyển 1.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư.
[5] Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
[6] Đại Việt sử lược – quyển 1.
[7] Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng – Các triều đại Việt Nam – NXB Thanh Niên – Năm 1995.